Chủ Nhật, 17 tháng 2, 2008

Chủ nghĩa xã hội và khoa học

Kỳ III: Chủ nghĩa xã hội và khoa học

F.A. HayekĐinh Tuấn Minh dịch

VII.
Việc thuyết phục những người theo CNXH rằng hoạch định tập trung là phi hiệu quả tốn rất nhiều thời gian. Những người hoạt động thực tiễn có lẽ sẽ chấp nhận điều này chẳng cần bằng lý lẽ mà chỉ cần qua việc nhìn vào ví dụ cảnh báo về hệ thống kiểu Nga-Xô; tuy nhiên, các lý thuyết gia đương đại chỉ chầm chậm thoái lui khỏi cái lập trường quan điểm được tạo dựng bởi các nhà sáng lập chủ nghĩa Marx và được tiếp nối duy trì bởi những lý thuyết gia hàng đầu cho tới tận cách đây chỉ khoảng độ 50 năm. Cho dù thế, ở một mức độ nào đó họ đã cố ý tạo ra cái ấn tượng rằng họ đã đánh bại đầy thuyết phục những đợt công kích dữ dội của những kẻ phê phán thù địch, do họ đã từ bỏ hết lập trường này đến lập trường khác để đưa ra những giải pháp mới hơn cho vấn đề.



Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội, bao gồm cả Marx và Engels, đã không hiểu được rằng, để các nguồn lực được sử dụng một cách có hiệu quả thì bất kỳ sự chỉ đạo tập trung nào đối với cỗ máy sản xuất được sở hữu bởi xã hội đều đòi hỏi phải có những tính toán dưới góc độ giá trị. Như Friedrich Engels đã nói chắc như đinh đóng cột, rằng kế hoạch xã hội đối với khâu sản xuất “sẽ được tạo lập một cách hết sức đơn giản mà chẳng cần đến thứ giá trị vẫn cứ được nhắc đến hoài (the famous value)”. Ngay cả khi cuộc tranh luận về vấn đề [hoạch định tập trung] bắt đầu nổ ra một cách nghiêm túc ngay sau khi kết thúc thế chiến thứ I, nó đã được tiếp sức bởi một chuyên gia khoa học xã hội trong nhóm logic thực chứng thành Vienna với nhận định rằng tất cả các phép tính về hiệu quả của quá trình sản xuất xã hội có thể được tiến hành in natura [thông qua các đại lượng vật lý – ND] – nghĩa là, không cần xem xét đến các tỷ lệ luôn thay đổi của sự biến chuyển giữa các yếu tố vật chất được sử dụng. Chống lại quan điểm này chính là Ludwig von Mises và một số các lý thuyết gia đương đại cùng thời (bao gồm cả Max Weber) khi họ đưa ra luận điểm phê phán có tính quyết định đầu tiên đối với lập trường CNXH. Điểm cốt lõi ở đây – cái mà cần phải thừa nhận rằng ngay cả các nhà kinh tế cổ điển hàng đầu cho tới tận John Stuart Mill đã không hiểu được – là ý nghĩa tổng quát của các tỷ lệ thay thế luôn thay đổi giữa các hàng hóa khác nhau. Ý tưởng đơn giản này, cái cuối cùng đã giúp chúng ta hiểu ra được vai trò của những sự khác nhau và sự biến đổi của các mức giá các mặt hàng khác nhau, đã dần được khai triển với tốc độ chậm chạp khởi đầu từ việc nhận ra – tôi không nói đấy là sự khám phá vì dĩ nhiên là mọi tá điền chất phác đều đã biết đến những sự khác nhau và sự biến đổi đó nếu không muốn nói họ còn biết đến cả vai trò lý thuyết của chúng – rằng các mức hoàn lợi sẽ giảm dần khi liên tiếp đưa lao động và tư bản vào khai thác đất đai. Tiếp đến, qui luật này, dưới cái tên qui luật về độ thỏa dụng cận biên giảm dần, được phát hiện là chi phối các mức thay thế cận biên giữa các loại hàng hóa tiêu dùng khác nhau. Và cuối cùng, nó được khai triển thành mối quan hệ tổng quát giữa tất cả các loại nguồn lực hữu dụng, giúp xác định được ngay tức thì rằng liệu các loại nguồn lực đó có giá trị kinh tế ngang bằng nhau hay không, và rằng liệu chúng có khan hiếm hay không. Chỉ đến khi người ta hiểu được rằng sự thay đổi các mức cung của các yếu tố sản xuất khác nhau (hoặc các hàng hóa khác nhau để thỏa mãn nhu cầu) quyết định tỷ lệ thay thế cận biên luôn biến đổi của chúng, thì người ta mới thực sự hiểu được rằng không thể tách rời các mức qui đổi tương đương (hoặc các tỷ lệ thay thế cận biên) quen thuộc khỏi bất kỳ tính toán hiệu quả [kinh tế] nào. Cuối cùng, người ta chỉ thực sự hiểu được chức năng không thể thay thế của các mức giá cả trong một nền kinh tế phức tạp cho tới khi nhận ra được là: nhờ có các mức giá thị trường nên cái mức qui đổi tương đương này tại tất cả các cách sử dụng khác nhau của [các yếu tố sản xuất khác nhau hoặc các hàng hóa khác nhau để thỏa mãn nhu cầu], điều hầu như chỉ được biết đến bởi một số ít trong số nhiều người mong muốn sử dụng chúng, mới có thể được làm ngang bằng với các tỷ lệ thay thế giữa bất kỳ cặp hàng hóa nào, bất kể chúng được sử dụng cho bất kỳ mục đích sử dụng nào.[*2] Như tôi đã đề cập trước đó, xét về bản chất, “các tỷ lệ thay thế cận biên” luôn biến đổi đối với các loại hàng hóa khác nhau có ý nghĩa giống như các mức qui đổi tương đương nhất thời được xác định bởi hoàn cảnh hiện tại giữa các loại hàng hóa đó, và nếu chúng ta muốn có thể khai thác được đầy đủ nhất công năng của các loại hàng hóa này thì các tỷ lệ này tất phải là những tỷ lệ tại đó những hàng hóa này phải có khả năng thay thế được lẫn nhau ở mức cận biên trong tất cả các cách sử dụng khả thể của chúng. Sự hiểu biết về chức năng của các mức qui đổi tương đương luôn thay đổi giữa các hàng hóa như là cơ sở cho sự tính toán, và sự hiểu biết về chức năng truyền thông của các mức giá cả, cái đã kết hợp tất cả các thông tin về các hoàn cảnh phân tán giữa một số lượng lớn con người thành một tín hiệu đơn nhất, là hai nhân tố giúp mọi người cuối cùng nhận thức được một cách rõ ràng về luận điểm: rằng chỉ có thể thực hiện được tính toán duy lý trong một nền kinh tế phức tạp dưới góc độ các mức giá trị hay các mức giá cả, và rằng những mức giá trị này sẽ trở thành các chỉ dẫn thực sự chỉ nếu như chúng là các nỗ lực phối hợp, chẳng hạn các mức giá trị được hình thành trên thị trường, của mọi loại tri thức của những người cung cấp hay người tiêu dùng tiềm năng về mức độ sẵn có cũng như các cách sử dụng khả thể của chúng. Phản ứng đầu tiên của các lý thuyết gia theo CNXH, một khi họ không còn có thế nhắm mắt làm ngơ trước thực tế này, là đưa ra đề xuất rằng các ủy ban hoạch định XHCN của họ nên xác định các mức giá bằng cách sử dụng cùng hệ thống các phương trình đồng thời vốn đã được các nhà kinh tế toán nỗ lực tạo dựng để giải thích các mức giá thị trường ở trạng thái cân bằng. Họ thậm chí còn cố gắng ám chỉ rằng Wieser, Pareto và Barone đã chỉ ra từ lâu về khả năng làm được điều này. Trên thực tế, cả ba học giả này đã chỉ ra cái mà một ủy ban hoạch định XHCN ắt phải cố gắng thực hiện để làm cân bằng tính hiệu quả của thị trường – chứ không phải, như các lý thuyết gia theo CNXH đã hiểu một cách sai lệch, về việc làm thế nào để có thể hoàn thành được một kết quả bất khả như thế. Cụ thể, Pareto đã nói rõ ràng rằng hệ thống các phương trình đồng thời – công trình giúp ông trở nên nổi tiếng – chỉ nhằm đưa ra cái khuôn trạng tổng quát (giống như cách hiện nay chúng ta hiểu về điều này), chứ không thể dùng để xác định các mức giá cụ thể, bởi vì sẽ chẳng có bất kỳ một cơ quan trung ương nào có thể biết được tất cả các hoàn cảnh theo không gian và thời gian vốn định hướng các hành động của các cá nhân, các hành động như thế trở thành thông tin và được nạp vào cỗ máy truyền thông mà chúng ta gọi là thị trường. Vì thế, nỗ lực đầu tiên của các lý thuyết gia theo CNXH hòng đáp lại phê phán của Mises và một số người khác đã sớm bị sụp đổ. Bước tiếp theo nhằm bác bỏ Mises, cụ thể là Oscar Lange và cả một số những người khác nữa, là các nỗ lực khác nhau nhằm hạn chế bớt vai trò của hoạch định tập trung và tái đưa vào một số các yếu tố của thị trường dưới cái tên “cạnh tranh kiểu CNXH”. Ở đây tôi sẽ không đi sâu vào việc phân tích sự đảo chiều trí tuệ vĩ đại này đã đem lại ý nghĩa như thế nào đối với những người đã nhấn mạnh trong một thời gian dài về tính ưu việt vượt bậc của hoạch định tập trung đối với cái gọi là “tình trạng hỗn độn của cạnh tranh”. Cách tiếp cận có tính mâu thuẫn nội tại này đã làm nảy sinh những vấn đề mới thuộc về một loại hoàn toàn khác. Tuy nhiên, không cách nào nó có thể vượt qua được hai khó khăn cốt yếu. Thứ nhất, chừng nào mà mọi máy móc công nghiệp và tư bản khác còn thuộc về “xã hội” (nghĩa là chính phủ), thì chính quyền XHCN không thể để cho cạnh tranh hay để thị trường quyết định lượng tư bản mà mỗi doanh nghiệp phải có là bao nhiêu, hay cho phép người quản lý được dấn thân vào các loại rủi ro nào — đây là hai điểm mang tính quyết định để cho một thị trường thực sự hoạt động được. Thứ hai, nếu ngược lại chính phủ cho phép thị trường hoạt động tự do, nó sẽ không thể làm được bất cứ thứ gì để bảo đảm rằng khoản thu nhập mà thị trường đem lại cho mỗi cá nhân tham gia sẽ tương ứng với mức mà chính phủ coi là công bằng trên bình diện xã hội. Đấy, rốt cục thì mong ước đạt được cái gọi là mức thu nhập “công bằng” như thế lại là toàn bộ mục đích của cuộc cách mạng XHCN!

VIII.
Các câu trả lời tương ứng cho ba câu hỏi mà chúng ta đặt ra không phụ thuộc vào các xét đoán giá trị cụ thể nào, trừ câu trả lời cho câu hỏi đầu tiên, tại đó các giá trị nhất định (chẳng hạn tự do và trách nhiệm cá nhân) được xem như là điều hiển nhiên. Có thể giả định rằng các giá trị đó đáng được chia sẻ bởi tất cả những người mà có mong muốn thảo luận về các vấn đề đạo đức như thế. Vấn đề nền tảng luôn là liệu chủ nghĩa xã hội có thể đem lại cái mà nó hứa hay không. Đây là một vấn đề thuần túy khoa học, ngay cả khi câu trả lời có thể phụ thuộc một phần vào một số điểm khiến cho chúng ta không thể trình bày được một cách chặt chẽ tính đúng đắn cho câu trả lời của chúng ta. Tuy thế, câu trả lời về tất cả ba vấn đề mà chúng ta đã đạt được hoàn toàn mang tính phủ định. Về mặt đạo đức, CNXH không thể tạo dựng mà chỉ phá hủy nền tảng của tất cả các giá trị đạo đức: tự do và trách nhiệm cá nhân. Về mặt chính trị, nó sớm hay muộn dẫn tới chính phủ toàn trị. Về mặt vật chất, nó sẽ làm tổn hại đáng kể quá trình tạo ra của cải, nếu không muốn nói, nó là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo trên thực tế. Tất cả ba phản biện này đối với CNXH đã được đưa ra từ rất lâu trên các nền tảng thuần túy trí tuệ, và theo thời gian chúng đã được hiệu chỉnh và toàn kiện. Không có những nỗ lực nặng ký đáng kể nào trong việc bác bỏ các phản biện chống lại CNXH này một cách thuyết phục về mặt lý luận. Thực ra, điều ngạc nhiên nhất đối với việc xem xét các vấn đề này bởi đa số các nhà kinh tế chuyên nghiệp là: họ rất ít khi coi chúng là vấn đề trọng tâm của các cuộc thảo luận. Ai đó có thể nghĩ rằng không có gì đáng quan tâm hơn đối với các nhà kinh tế là tính hiệu quả và lợi ích tương đối đối với phúc lợi chung của các chế độ kinh tế khác nhau. Nhưng thực tế thì họ thật đáng xấu hổ về chủ đề này, cứ như thể họ sợ hãi cày xới lãnh địa của họ vì tự trách mình đang dính líu đến các chủ đề “chính trị”. Họ đã bỏ mặc cuộc tranh luận lại cho các chuyên gia về “các hệ thống kinh tế”, những người đưa ra những lập luận cũ rích trong sách giáo khoa của họ, những người luôn cẩn thận tránh né việc đứng về bên nào. Cứ như thể là, việc cái vấn đề tranh luận đó trở thành chủ đề tranh cãi chính trị là nguyên nhân làm im tiếng các nhà khoa học, những người biết rằng họ có thể bác bỏ một cách rõ ràng ít nhất một số các lý lẽ của một bên. Thái độ trung lập kiểu này đối với tôi không phải là sự không thiên vị mà là sự hèn nhát. Đã đến lúc chúng ta phải thét to lên rằng: những nền tảng trí tuệ mà CNXH dựa vào đã bị sụp đổ hoàn toàn. Tôi phải thú nhận rằng, sau một quãng thời gian phí hoài chờ đợi 40 năm để tìm kiếm một bảo vệ có trí tuệ đáng kể bác lại các phản biện chống lại các đề án CNXH, tôi đã bắt đầu trở nên không thể kiên nhẫn hơn được nữa. Bởi tôi đã luôn nhìn nhận rằng phe theo CNXH bao gồm rất nhiều người có thiện chí, nên tôi đã cố gắng phê phán các học thuyết của họ theo một cách nhẹ nhàng. Nhưng thời gian đã quá đủ để kêu to lên rằng các nền tảng trí tuệ của CNXH chứa đầy những lỗ hổng, và rằng việc phản biện chống lại CNXH được dựa trên, không phải là các giá trị khác biệt hay thiên kiến gì cả, mà là lý lẽ logic không thể bác bỏ. Đây là điều cần phải được nói ra, đặc biệt về thái độ sử dụng chiến thuật thường xuyên của hầu hết những người cổ vũ hay bảo vệ CNXH. Thay vì lập luận một cách có logic để đáp trả các phản biện nền tảng, những người theo CNXH lại công kích các động cơ và thể hiện thái độ nghi ngờ về thiện chí của những người bảo vệ phe “chủ nghĩa tư bản”. Đối với tôi, những cách thức lộ liễu như kiểu, xoay cuộc tranh luận từ luận điểm rằng liệu một niềm tin có đúng đắn hay không sang luận điểm rằng tại sao nó vẫn được người ta tin, tự nó là một minh chứng hiển nhiên cho sự yếu kém về nền tảng trí tuệ của những người theo CNXH. Rất phổ biến là, phản biện đáp trả của người theo CNXH có vẻ thường tập trung nhiều vào việc hạ thấp uy tín tác giả thay vì bác bỏ các luận điểm của tác giả. Chiến thuật ưa thích của các phản biện đáp trả là cảnh báo giới trẻ đừng có quan tâm nhiều đến tác giả hoặc tác phẩm của tác giả. Thực sự là thủ đoạn này đã được phát triển tới mức độ chuyên nghiệp. Liệu một người trẻ tuổi có còn đoái hoài đến một cuốn sách, chẳng hạn cuốn Constitution of Liberty [Hiến pháp tự do – ND] của tôi, khi anh ta được một vị khả kính “cấp tiến” về khoa học chính trị của Anh quốc nói rằng đó là một trong những “con khủng long vẫn còn thỉnh thoảng xuất hiện, rõ ràng trơ lì trước sự chọn lọc của tự nhiên?” Nguyên lý nói chung dường như là: nếu ta không thể bác bỏ được lý lẽ, hãy đánh vào uy tín của tác giả. Dù cho lý lẽ chống lại CNXH có khả năng xác thực, trung thực và có lẽ còn đúng đi chăng nữa, nhưng các học giả cánh tả này dường như không thèm ngó ngàng đến bất kỳ một khả năng nào, bởi vì có lẽ chính bản thân họ cũng đã biết rằng họ hoàn toàn sai. Tất nhiên, sự khác biệt chính trị thường bắt nguồn từ sự khác biệt về các giá trị tối hậu, và đây là điều rất ít hoặc chẳng dính líu gì đến khoa học. Nhưng những khác biệt cốt lõi tồn tại hiện nay ít nhất là giữa những trí thức theo CNXH, những người xét đến cùng đã phát minh ra CNXH, và các đối thủ của họ không thuộc về loại này. Chúng là các khác biệt trí tuệ có thể được sàng lọc và giải quyết bằng lập luận logic giữa những người không muốn sa lầy vào một mớ bòng bong. Tôi chưa bao giờ tham gia vào bất kỳ một đảng phái chính trị nào. Cách đây khá lâu tôi đã làm sốc nhiều người bạn của tôi khi giải thích với họ rằng tôi không thể là một người thuộc phái bảo thủ.[*3] Thành thực mà nói, việc đắm mình vào tìm hiểu bản chất của các vấn đề kinh tế của xã hội đã khiến tôi trở thành một người chống CNXH triệt để. Hơn nữa, có một điều thuyết phục tôi là, với tư cách là một nhà kinh tế, bằng cách đưa ra các lý lẽ phê phán CNXH, tôi có thể đóng góp cho cộng đồng tốt hơn bất kỳ phương tiện nào khác. Chống CNXH ở đây có nghĩa là chống đối lại tất cả sự can thiệp của chính phủ vào thị trường, bất kể biện pháp can thiệp đó là vì lợi ích của nhóm người nào. Hoàn toàn không đúng khi mô tả thái độ này là thái độ laissez faire – một loại ngôn từ bôi nhọ khác thường được sử dụng để thay cho lý lẽ – bởi vì một thị trường vận hành tốt được đòi hỏi một khung các luật lệ thích hợp. Cũng tồn tại nhiều lý do thích đáng khác đòi hỏi chính phủ đảm nhận nhiều loại dịch vụ nằm ngoài cơ chế thị trường, vì lý do này hay lý do khác khiến thị trường không thể đáp ứng. Nhưng nhà nước tất nhiên phải không bao giờ có cái quyền độc tôn đối với bất kỳ loại dịch vụ nào như thế, đặc biệt các loại dịch vụ bưu chính, truyền thông, hoặc việc phát hành tiền tệ. Một số tín hiệu cho thấy thái độ lành mạnh đang quay trở lại. Nhưng tôi vẫn chưa thực cảm thấy hy vọng vào các viễn cảnh của tương lai. Có quá nhiều người phát biểu về việc các quốc gia trở nên “không thể cai quản”, nhưng lại có quá ít người nhận ra rằng các nỗ lực cai quản quá nhiều chính là mầm mống của sự lộn xộn, và thậm chí còn ít hơn nữa những người nhận ra được rằng tai ương đã và đang ngấm vào thể chế hiện hành sâu đến mức độ như thế nào. Vì sự nghiệp hướng tới các mục tiêu của mình, CNXH cần chính phủ với các quyền lực không bị giới hạn, và nó đã có được điều đó. Trong một hệ thống như thế, có nhiều nhóm khác nhau phải nhận được cái không phải là thứ mà một phái đa số nghĩ là những nhóm đó xứng đáng hưởng, mà là cái mà bản thân các nhóm này nghĩ rằng họ có quyền được hưởng. Do đó, việc cấp phát cho những nhóm này cái họ nghĩ rằng họ có quyền được hưởng trở thành cái giá mà một số nhóm phải trả để trở thành một đa số. Dân chủ vô hạn nhất định dẫn tới một loại CNXH, nhưng là một CNXH mà không ai có ý định hướng tới hoặc có lẽ mong muốn: một tình huống tại đó cơ quan đại diện được bầu cũng như nhóm đa số cầm quyền, với quyền lực mà nó có, phải tiến hành cái việc bù đắp mọi mối bất bình được tưởng tượng ra, bất kể đòi hỏi đó có đôi chút chính đáng nào hay không. Đó không phải là sự bình bầu do một đa số tiến hành về phẩm bậc của các cá nhân hoặc các nhóm, mà là quyền lực tranh giành các đặc lợi từ chính phủ, nơi giờ đây có quyền quyết định sự phân phối thu nhập, bởi những cá nhân hay những nhóm đó. Nghịch lý là: để đảm bảo dân chủ, cái chính phủ siêu quyền lực mà CNXH cần có tất phải hướng đến việc bù đắp mọi sự bất mãn như thế, và để thỏa mãn mọi sự bất mãn đồng nghĩa với việc nó phải đãi ngộ cho các nhóm dựa trên ước tính của chính các nhóm đó về những gì mà họ xứng đáng được hưởng. Nhưng không một xã hội khả dĩ nào có thể đãi ngộ mọi người ở mức do chính anh ta ước tính. Một xã hội tại đó một số ít người có thể khai thác quyền lực để giành được cái mà họ cho rằng họ có quyền được hưởng có khả năng dẫn đến sự thiệt thòi đáng kể cho những người khác, nhưng dù thế thì xã hội đó chí ít vẫn có khả năng tồn tại được. Một xã hội tại đó mọi người hợp nhau lại thành một số nhóm nhất định nhằm áp lực chính phủ trợ giúp anh ta có được cái mà anh ta muốn là một xã hội tự tiêu vong. Không có cách nào ngăn cản được việc một số người nảy sinh cảm giác rằng họ bị đối xử thiếu công bằng – đấy là cái xu hướng phổ biến trong mọi chế độ xã hội, nhưng với các mô hình xã hội mà cho phép các nhóm người bất mãn có được cái quyền thỏa mãn các đòi hỏi của họ – hoặc theo cách nói lái mới, thừa nhận “quyền được hưởng”, thì sẽ chẳng có bất kỳ một xã hội nào tránh khỏi tình trạng không thể quản lý được. Không có giới hạn nào đối với các ước muốn của dân chúng đòi hỏi một chính phủ dân chủ không bị giới hạn phải có trách nhiệm đáp ứng thỏa mãn. Hãy xem tuyên bố đáng lưu ý, phát biểu bởi một chính trị gia hàng đầu của Công Đảng (Anh), rằng ông ta coi mình có nghĩa vụ bù đắp mọi bất mãn! Tuy nhiên, sẽ là thiếu công bằng khi lại đi chỉ trích nặng nề các chính trị gia vì họ không được phép nói “không”. Với các mô hình đang thịnh hành, có lẽ một nhà lãnh đạo có uy tín đôi lúc có thể dám nói “không”, nhưng một đại diện cử tri thông thường, để còn hy vọng giữ được cái ghế của mình, không thể nói “không” đối với bất kỳ một số lượng đáng kể các cử tri của mình, dù cho các đòi hỏi của họ không chính đáng. Trong một xã hội nơi của cải của nó phụ thuộc vào sự thích ứng nhanh chóng với các hoàn cảnh liên tục thay đổi, cá nhân có thể được thả cho tự do lựa chọn các hướng đi cho mình chỉ khi các phần thưởng dao động dựa theo các giá trị của các dịch vụ mà anh ta có thể cung ứng vào bể các nguồn lực chung của xã hội. Nếu thu nhập của anh ta được xác định bằng con đường chính trị, anh ta sẽ mất đi không chỉ sự khuyến khích mà còn cả khả năng quyết định cái anh ta có nghĩa vụ phải làm vì lợi ích chung. Và nếu anh ta không thể tự biết cái mình phải làm là gì để khiến các dịch vụ của anh ta trở nên có giá trị cho đồng loại của mình, anh ta sẽ phải chấp nhận bị sai bảo làm cái mà (người khác) yêu cầu. Đương đầu với sự không thỏa mãn, nghịch cảnh và sự gian khổ là một nguyên tắc mà hầu hết mọi người trong bất kỳ xã hội nào đều phải qui phục, và nó là một nguyên tắc mà mọi người đều chờ đợi sự tuân thủ từ những người có năng lực hành vi. Cơ chế giảm nhẹ những nỗi gian lao này trong một xã hội tự do là cơ chế [đảm bảo rằng] không có ai độc đoán áp đặt chúng, và đồng thời cũng đảm bảo rằng phạm vi tác động của chúng được quyết định bởi một quá trình phi cá nhân, nơi mà cơ hội không được định đoạt trước. Tôi tin rằng, sau một thời gian sống trong một chế độ XHCN, mọi người rồi sẽ nhận ra được rằng trò chơi thị trường sẽ giúp cho mọi người có được phúc lợi và địa vị xã hội tương đối tốt hơn so với việc ỷ vào ý chí của một cá nhân sáng suốt, người được ủy quyền chăm nom cho mọi người. Tuy nhiên, các xu thế hiện nay dường như lại là: các thể chế chính trị hiện tồn sẽ kiệt sức vì các nghĩa vụ mà chúng không thể gánh đỡ nổi trước khi một ý tưởng như trên lan đủ rộng. Sẽ chẳng thể nào xây dựng được một xã hội tử tế trừ phi dân chúng học được cách chấp nhận rằng đa số sự bất mãn của họ là không chính đáng, và họ không nên lấy chúng để đòi hỏi những người khác, và rằng trên thế giới này không nên xem chính phủ có khả năng gánh vác trách nhiệm một cách có hiệu quả đối với việc đáp ứng hạnh phúc cho các nhóm người cụ thể. Rồi thì, những người có lý tưởng nhất trong số những người theo CNXH sẽ bị dồn đến phải phá hủy nền dân chủ để phục vụ cho cái viễn cảnh CNXH lý tưởng của họ trong tương lai. Những xu thế hiện tại cho thấy rằng sẽ có sự nổi dậy của một lực lượng đông đảo những người mà chính phủ không thể thoái thác trách nhiệm phải đáp ứng phúc lợi và địa vị xã hội của họ, và sự nổi loạn của họ vì lý do không được trả đầy đủ, hoặc vì bị yêu cầu phải làm nặng nhọc hơn mức mà họ thích, ắt sẽ bị đàn áp bằng roi da và súng máy: đây cũng là kết cục gây ra bởi chính những con người thực tâm có ý định ban phát [cho mọi người] tất cả những ước muốn của mình. (Hết)

________________________

Chú thích: [*2] Hayek trình bày nội dung đoạn này về vai trò của các mức giá cả trong nền kinh tế tương đối rõ ràng trong phần V của bài luận The Use of Knowledge in Society, American Economic Review, XXXV, No. 4, (tháng 9, 1945). Độc giả có thể tham khảo bản dịch của bài luận này trên talawas với tiêu đề “Sử dụng tri thức trong xã hội” do Đinh Tuấn Minh dịch. [ND] [*3] Hayek bày tỏ thái độ này qua bài viết: “Why I Am Not a Conservative”, được đưa vào trong phần Tái bút của cuốn The Constitution of Liberty, The University of Chicago Press: Chicago, 1960.

Không có nhận xét nào: